First thing first
Để hiểu rõ hơn khi nào chúng ta nên dùng after_commit
thì chúng ta cùng xem qua một ví dụ sau.
Giả sử chúng ta có một tính năng thêm người dùng vào một nhóm, mỗi khi người dùng được thêm vào nhóm, chúng ta cần gửi email thông báo đến người quản trị của nhóm thông tin của người dùng vừa mới được thêm vào.
Thông thường, để xử lý trường hợp này, đa số chúng ta sẽ nghĩ ngay đến callback after_save
. Rõ ràng, với callback này, vấn đề của chúng ta đã được giải quyết.
classUser<ApplicationRecord
after_save :send_email_notificationsdefsend_email_notifications# Send email notifications in the backgroundSendEmailNotifications.perform_later(self.id)endend
Thoạt nhìn, tuởng chừng mọi thứ sẽ hoạt động trơn tru, nhưng ngẫm đi ngẫm lại có thể chúng ta đã không xử lý hết các trường hợp sẽ xảy ra. Đoạn code trên sẽ gặp vấn đề. Vậy vấn đề ở đây là gì?
Problem
Như chúng ta đã biết, after_save
callback sẽ được thực thi sau khi record đã được lưu xuống database, nhưng lúc này transaction vẫn chưa hoàn thành. Database sẽ thực thi mọi thứ trong một transaction, nếu có lỗi xảy ra làm cho transaction bị lỗi thì mọi thứ trong transaction đó được revert trở lại.
Quay lại với tính năng thêm người dùng vào nhóm của chúng ta, nếu có lỗi xảy ra, database sẽ revert lại việc thêm người dùng vào nhóm.
Và việc gửi mail đã được chạy backgroundjob, sẽ trả vể ngoại lệ NotFound
vì nó không tìm được ID của người dùng.
Solve
Vậy để giải quyết trường hợp này, after_commit
callback sẽ giúp chúng ta.
after_commit
Dùng callback này sẽ đảm bảo method send_email_notifcations
được thực thi chỉ khi nào transaction thành công và dữ liệu đã được ghi xuống database.
classUser<ApplicationRecord
after_commit :send_email_notifications, on::createdefsend_email_notifications# Send email notifications in the backgroundSendEmailNotifications.perform_later(self.id)endend
Nguồn: viblo.asia