Fine-grain refactoring deep dive (2) – Encapsulate Collection

1. Problem Một trong những tính chất quan trọng và nổi bật của lập trình hướng đối tượng (Object Oriented Programming) đó chính là tính bao gói (Encapsulation), tính chất này được phát biểu như sau: In object-oriented programming (OOP), encapsulation refers to the bundling of data with the methods that operate on that data,

1. Problem

Một trong những tính chất quan trọng và nổi bật của lập trình hướng đối tượng (Object Oriented Programming) đó chính là tính bao gói (Encapsulation), tính chất này được phát biểu như sau:

In object-oriented programming (OOP), encapsulation refers to the bundling of data with the methods that operate on that data, or the restricting of direct access to some of an object’s components.

Trong lập trình hướng đối tượng, tính bao gói đề cập tới việc đóng gói thuộc tính và các phương thức , hoặc sự giới hạn truy cập trực tiếp đến một số thành phần của đối tượng.

Như vậy là tính bao gói đề cập đến hai vấn đề chính, một là Object và một là Getter/Setter.

Nhưng câu hỏi bây giờ đặt ra là vai trò của tính bao gói trong thực tế là gì (phạm vi trong bài viết này mình sẽ chủ yếu đề cập đến Getter/Setter) khi thiếu đi nó thì code vẫn hoạt động một cách bình thường.
Hãy cùng xem xét đoạn code sau áp dụng cho collection-type field với public modifier, không Getter/Setter:

public class MyClass {

    public List<String> myStrings;

}

Khi bạn chỉ viết và chạy một chương trình Java đơn giản, ví dụ như khởi tạo và in ra Object bằng hàm main() chẳng hạn, viết như trên là hoàn toàn ổn nhưng vấn đề sẽ xảy ra khi bạn tham gia vào một dự án lớn hơn. Làm sao bạn có thể đảm bảo rằng chỉ khi nào giá trị nhận được không phải null hay empty() thì bạn mới lưu lại vào biến myStrings một cách đơn giản, làm sao bạn có thể tránh được sự rườm rà của việc check null mỗi khi muốn thao tác với dữ liệu và nếu bạn muốn tạo một immutable object thì làm thế nào…chưa kể đến nỗi ám ảnh thì phải maintain code nữa. Nói chung là mọi thứ sẽ trở nên phức tạp vì với việc dùng non-private access modifier đồng nghĩa với việc bạn sẽ mất quyền kiểm soát sự thay đổi dữ liệu của đối tượng.

Tuy nhiên thì Getter/Setter có lẽ đôi khi cũng không cần thiết đối với trường hợp sau:

public class MyClass {
    private String name;
    
    public String getName() {
		return name;
	}
	
	public void setName(String name) {
		this.name = name;
	}
    
}

Không những mình ít khi tận dụng được gì từ Getter và Setter ở trường hợp này, mà code còn trở nên dài hơn và chậm hơn chút xíu nữa 😂😂.

Quay trở lại về bài toán ban đầu, sau khi thêm Getter/Setter chúng ta có đoạn code sau:

public class MyClass {

    private List<String> myStrings;

    public void setMyStrings(List<String> s) {
        this.myStrings = s;
    }

    public List<String> getMyStrings() {
        return this.myStrings;
    }
}

Mặc dù đã tuân thủ các nguyên lý OOP nhưng bạn sẽ thấy nó chưa đủ “tốt”, hãy cùng refactor bằng việc trả lời các câu hỏi sau:

  1. Tôi muốn khi lấy ra giá trị thì không phải check null nữa.
  2. setMyStrings đang nhận tham số đầu vào là một ArrayList, tôi muốn nhận vào một Set thì làm như thế nào?
  3. Tôi chỉ muốn setMyStrings khi giá trị truyền vào có tồn tại.
  4. Tôi muốn sử dụng các hàm như add() hay remove() nhưng hiện tại nếu sử dụng các hàm này thì lại phá vỡ nguyên tắc Encapsulation.
  5. Tôi không thể viết lại các method của collection như implement Collection<String> để kiểm soát sự thay đổi dữ liệu được, nó làm tăng độ phức tạp một cách không cần thiết.

2. Solution

  1. Khởi tạo giá trị cho field myStrings. Từ bản Java8 thì khi khởi tạo ArrayList không còn default capacity = 10 nữa, nên bạn không cần lo lắng về việc tốn memory, chỉ khoảng 24 bytes mỗi ArrayList instance.

    public class MyClass {
    
        private List<String> myStrings = new ArrayList();
    
        public List<String> getMyStrings() {
            return this.myStrings;
        }
    }
    
  2. Dùng superclass-type for tham số truyền vào.

    public class MyClass {
    
        private List<String> myStrings = new ArrayList();
    
        public List<String> getMyStrings() {
            return this.myStrings;
        }
    
        public void setMyStrings(Collection<String> s) {
            this.myStrings.clear(); 
            if (s != null) { 
                this.myStrings.addAll(s); 
            } 
        }
    }
    
  3. Thêm custom addString()removeString() method, return bản copy của myStrings.

    public class MyClass {
    
       private final List<String> myStrings = new ArrayList();
    
       public void setMyStrings(Collection<String> s) {
           this.myStrings.clear(); 
           if (s != null) { 
               this.myStrings.addAll(s); 
           } 
       }
    
       // 6
       public List<String> getMyStrings() {
           return new ArrayList(this.myStrings);
       }
    
       public void addString(String s) { 
           this.myStrings.add(s); 
       }
    
       public void removeString(String s) { 
           this.myStrings.remove(s); 
       }
    }
    

    Cảm ơn mọi người đã đọc bài. Happy Coding! 😆😆

    References:

    1. https://www.baeldung.com/java-why-getters-setters

Nguồn: viblo.asia

Bài viết liên quan

WebP là gì? Hướng dẫn cách để chuyển hình ảnh jpg, png qua webp

WebP là gì? WebP là một định dạng ảnh hiện đại, được phát triển bởi Google

Điểm khác biệt giữa IPv4 và IPv6 là gì?

IPv4 và IPv6 là hai phiên bản của hệ thống địa chỉ Giao thức Internet (IP). IP l

Check nameservers của tên miền xem website trỏ đúng chưa

Tìm hiểu cách check nameservers của tên miền để xác định tên miền đó đang dùn

Mình đang dùng Google Domains để check tên miền hàng ngày

Từ khi thông báo dịch vụ Google Domains bỏ mác Beta, mình mới để ý và bắt đầ