Sau khi đã điểm qua những thao tác cơ bản với các giá trị số học và logic thì chúng ta còn Char
và
String
là primitive
. Nhân tiện thì khi nói tới String
, mặc dù là primitive
nhưng trong hầu
hết các ngôn ngữ lập trình nói chúng thì String
đều có thêm khả năng tương tác giống với một
dải các giá trị được lưu trữ dạng liệt kê sequence
. Do đó nên mình quyết định là sẽ mang List
vào nội dung của bài này và để dành Tuple
và Record
cho bài viết sau cho dễ so sánh.
Char
Package:
elm/core/Char
Các ngôn ngữ định kiểu dữ liệu tĩnh static-typing
như C
hay Java
đều có kiểu Char
tách
riêng khỏi String
và đều sử dụng các cặp nháy đơn 'A'
để biểu thị các giá trị Char
trong
code. Ở đây Elm
cũng sử dụng quy ước tương tự và chúng ta cũng có thêm một thư viện cung
cấp các sub-program
để làm việc với các giá trị Char
trong liên kết ở trên.
Số lượng các thao tác được cung cấp với Char
cũng không nhiều, nên có lẽ chúng ta có thể liệt
kê hết ở đây. Đầu tiên sẽ là các thao tác kiểm tra ký tự số, ký tự chữ, kiểu viết thường, kiểu viết hoa.
Các ký tự kiểm tra trong ví dụ lần lượt là:
- Chữ số
0
- Chữ viết thường
o
- Chữ viết hoa
O
Char.isDigit '0' -- True
Char.isDigit 'o' -- False
Char.isDigit 'O' -- False
Char.isAlpha '0' -- False
Char.isAlpha 'o' -- True
Char.isAlpha 'O' -- True
Char.isUpper '0' -- False
Char.isUpper 'o' -- False
Char.isUpper 'O' -- True
Char.isLower '0' -- False
Char.isLower 'o' -- True
Char.isLower 'O' -- False
Trong code ví dụ ở đây thì mình muốn viết đủ tên của module
để bổ nghĩa cho tên của các
sub-program
. Nếu bạn cảm thấy rườm rà và muốn code gọn hơn thì có thể thêm thao tác
exposing
như trong các bài viết mở đầu.
import Char exposing (..)
Nhóm thao tác còn lại là chuyển đổi qua lại giữa kiểu chữ viết thường <=> chữ viết hoa, và
chuyển đổi giữa mã Unicode <=> ký tự chữ cái.
Char.toUpper 'a' -- 'A'
char.toLower 'A' -- 'a'
Char.toCode 'a' -- 97
Char.fromCode 98 -- 'b'
String
Package:
elm/core/String
Ngoài cách biểu thị bằng một cặp nháy kép "a string"
thì Elm
còn cho phép mô tả nội dung
văn bản dài trên nhiều dòng liền nhau bằng 3 cặp nháy kép –
"""A string with a line br
eak in Elm"""
-- "A string with a line brn eak in Elm" : String
Ở đây mình có lưu ý một chút. Đó là cái khoảng trống giữa ký tự xuống dòng mới newline
và
eak...
là do trong môi trường Elm REPL
tự động thụt đầu dòng khi chúng ta viết code. Còn
logic chuẩn thì khi viết vào code trong tệp và chạy elm make
hay elm reactor
thì chúng ta sẽ
có từ brneak
.
Số lượng thao tác thường sử dụng với String
thì có rất nhiều, tuy nhiên ở đây mình sẽ chỉ liệt
kê một số thao tác mà mình chú ý ở cấp độ cú pháp JS
và tham chiếu sang Elm
.
-- "Check if a string is empty in JS" == ""
String.isEmpty "Check in Elm"
-- "JS String" + " concatenation"
"Elm String" ++ " concatenation"
-- "A" + "ppend a character in JS"
(String.fromChar 'A') ++ "ppend a character in Elm"
-- [ ... "JS String to Array" ]
String.toList "Elm String to List Char"
Các thao tác còn lại được JS
cung cấp dưới dạng sub-program
thì ở đây Elm
cũng có khá đầy
đủ và cách thức sử dụng thì cũng không có gì khác biệt. Tuy nhiên có nhóm
Higher Order Functions
thì mình lưu ý là sẽ tạm thời chưa sử dụng trong Sub-Series này và để dành cho tới Sub-Series
tiếp theo về Functional Programming
.
List
Package:
elm/core/List
Thực tế thì List
và Array
là hai cấu trúc dữ liệu khác nhau và không thể so sánh tương đồng
hoàn toàn về cách thức sử dụng List
trong Elm
và cách thức sử dụng Array
trong JS
.
Điểm khác biệt căn bản giữa hai kiểu sequence
này đó là List
không hỗ trợ việc truy xuất
nhanh một phần tử bằng trị số chỉ vị trí index
như kiểu JSarray[1001]
.
Tuy nhiên thì chúng ta có thể tạm thời quan tâm trước hết tới những thao tác khác, được JS
hoặc Elm
hỗ trợ ở cấp độ cú pháp của ngôn ngữ –
-- var concatenated = [ ...["Array", "concatenation"], ...["in", "JS"] ]
["List", "concatenation"] ++ ["in", "Elm"]
-- var appended = [ "Append", ...["to", "Array", "in", "JS"] ]
"Append" :: ["to", "List", "in", "Elm"]
["Append"] ++ ["to", "List", "in", "Elm"]
List.append ["Append"] ["to", "List", "in", "Elm"]
-- var prepended = [ ...["JS", "Array", "and"], "Prepend" ]
List.append ["Elm", "List", "and"] ["Prepend"]
Ậy, mấy cái List
trong Elm
không có thao tác List.prepend
nên code chỗ này trông có hơi
bất đồng về mặt cú pháp. Mặc dù chúng ta cũng có thể tự định nghĩa thêm thao tác prepend
dựa trên List.append
nếu muốn; Tuy nhiên mình nghĩ là thiết kế sử dụng như thế này hẳn phải
có lý do và chúng ta nên tạm thời đặt một chút băn khoăn ở đây cho đến khi quen với thao tác
sử dụng List
trong những tình huống cụ thể.
Ngoài ra thì còn thao tác tách lấy một phần nội dung trong sequence
thì ở cấp độ cú pháp của
ngôn ngữ JS
còn cung cấp một thao tác có tên là destructuring
. Ở đây Elm
chỉ hỗ trợ ở cấp
độ sub-program
và có điểm mà chúng ta cần phải lưu ý ở phần kết quả thu được.
-- var [ head, ...tail ] = ["Head", "Tail", "of", "JS", "Array"]
List.head ["Head", "Tail", "of", "Elm", "List"]
-- Just "Head" : Maybe String
List.tail ["Head", "Tail", "of", "Elm", "List"]
-- Just ["Tail","of","Elm","List"] : Maybe (List String)
Các kết quả này đều có điểm chung là thuộc kiểu Maybe
và có một tham số dữ liệu kiểu biến
thiên a
bất kỳ. Mở định nghĩa của Maybe
xem nào:
elm/core/Maybe
typeMaybea=Justa|Nothing
Chúng ta đang có Maybe a
là một kiểu Union
. và nếu như một giá trị thu được từ một
sub-program
mà có kết quả được type-hint
là Maybe a
, thì có khả năng giá trị đó sẽ thuộc
kiểu Just a
hoặc Nothing
. Trong đó thì Nothing
không được định nghĩa và được xem là một
giá trị tương đương với null
hay undefined
ở các môi trường lập trình khác; Còn Just
là một
kiểu vỏ bọc đơn giản được thiết kế để có thể chứa được một giá trị của kiểu bất kỳ a
.
Lý do chung chung là thao tác tách lấy dữ liệu của một sequence
như trên thì chúng ta có một
trường hợp đặc biệt đó là khi nguồn dữ liệu là một sequence
rỗng –
-- var [ head, ...tail ] = []
List.head [] -- Nothing : Maybe a
List.tail [] -- Nothing : Maybe (List a)
Đối với trường hợp của JS
thì chúng ta có kết quả thu được là một giá trị head = undefined
và
một mảng tail = []
. Còn trong môi trường của Elm
thì chúng ta thu được các giá trị Nothing
cùng kiểu với kiểu giá trị dự tính. Cụ thể là với List.head
thì chúng ta mong muốn thu được một
giá trị a
trong List
, còn với List.tail
thì chúng ta mong muốn thu được một List
nhỏ hơn.
Thiết kế này nhằm mục đích khiến cho các giá trị thu được sẽ luôn có ý nghĩa trong mọi trường hợp
của List
ban đầu; Và chúng ta sẽ có thể sử dụng các giá trị thu được này để điều hướng logic xử
lý tình huống case
của code sau đó. Tuy nhiên chúng ta sẽ để dành việc tìm hiểu cấu trúc lệnh
điều hướng logic case
và cả việc lặp thao tác xử lý looping
cho đến khi điểm qua các thao tác
với Tuple
và Record
.
(chưa đăng tải) [Declarative Programming + Elm] Bài 6 – Tuple & Record
Nguồn: viblo.asia